Search

Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

31. ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ


ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN

Câu 1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.


1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
a)      Khái niệm sản xuất hàng hóa
-          Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế, trong đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm để trao đổi hoặc bán trên thị trường.
-          Sản xuất tự cung tự cấp: là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm tạo ra nhằm để thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất.
b)      Khác nhau giữa kinh tế hàng hoá và sản xuất tự cấp tự túc
Khác nhau
Kinh tế
Hàng hoá
Kinh tế tự cung tự cấp
- Mục đích sản xuất
Trao đổi, mua bán
Tiêu dùng bản thân người sản xuất
- Phương thức sản xuất
hiện đại
thủ công lạc hậu
- Quy mô sản xuất
lớn
nhỏ
 2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá so với sản xuất tự cấp tự túc.
-          Sản xuất tự cung tự cấp là sản xuất khép kín nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất. Do vậy nhu cầu chỉ dừng lại ở mức độ hạn hẹp. Trái lại sản xuất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của thị trường, nhu cầu thị trường là động lực kích thích sản xuất
-          Sản xuất tự cung tự cấp cản trở sự phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất hàng hoá thì ngược lại nó thúc đẩy sự phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng.( Xuất hiện nhiều ngành nghề mới như vệ sĩ, dịch vụ nhà ở…)
-          Sản xuất tự cung, tự cấp không chỉ có cạnh tranh, chủ yếu dựa vào nguồn lực tự nhiên còn sản xuất hàng hoá đặt trong môi trường cạnh tranh là động lực to lớn để thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, sử dụng các nguồn lực sản xuất, tiết kiệm và có hiệu quả.
-          Sản xuất tự cung tự cấp khả năng thỏa mãn nhu cầu về vật chất, tinh thần thấp kém, còn đối với sản xuất hàng hoá với quan hệ hàng hoá tiền tiện, quan hệ trao đổi người sản xuất tiêu dùng làm cho giao lưu kinh tế giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển.
c) Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá.
-          Phân công lao động xã hội:
o  Là sự phân chia lao động xã hội ra các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất khác nhau tạo nên sự chuyên môn hoá lao động và theo đó là chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành nghề khác nhau.
o  Do sự phân công lao động mà mỗi người tạo ra những hàng hoá khác nhau trong khi nhu cầu xã hội cần nhiều thứ nên tất yếu dẫn đến trao đổi, mua bán hàng hoá để thỏa mãn nhu cầu.
-          Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định: Do sự tách biệt, do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động dẫn đến sự tách biệt về kinh tế và lợi ích, làm cho lao động của người sản xuất mang tính chất là lao động tư nhân. Do đó người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi sản phẩm dưới hình thái hàng hoá nhằm đảm bảo sự ngang bằng về lợi ích cho mỗi bên.



Câu 2. Hai thuộc tính hàng hóa. Cách xác định lượng giá trị hàng hóa.

1.      Khái niệm hàng hoá.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
2.      Hai thuộc tính của hàng hoá.
a)    Giá trị sử dụng:
-          Là công dụng của vật phẩm đó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Ví dụ: thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng
          gạo có giá trị sử dụng nuôi sống con người
          Sách báo có giá trị sử dụng giải trí
          Vải có giá trị sử dụng thẩm mỹ
-          Giá trị sử dụng do những thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định, không lệ thuộc vào chế độ xã hội. Khi xã hội càng phát triển thì xã hội càng tìm ra càng nhiều giá trị sử dụng cho cùng một vật phẩm. (than đá dùng đun nấu, nhưng khi xã hội phát triển than đá còn dùng trong công nghiệp hoá chất)
-          Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn.
-          Trong nền kinh tế hàng hoá giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.
-          Đối với hàng hoá dịch vụ thì giá trị sử dụng của nó có đặc điểm là không có hình thái vật thể quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời do đó nó không tích luỹ hay dự trữ.
b)   Giá trị hàng hoá.
Muốn hiểu được giá trị là gì cần phân tích giá trị trao đổi.
          Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.
         Ví dụ:1 Cái rừu = 20 kg gạo
          Hàng hoá gạo và rừu khác nhau nhưng có thể trao đổi với nhau được vì giữa chúng có một cơ sở chung- rừu và gạo đều là sản phẩm của lao động. Trong quá trình sản xuất hàng hoá người lao động phải tiêu phí sức lao động của mình. Người thợ rèn mất 5giờ lao động để sản xuất ra rừu và người nông dân mất 5giờ lao động để sản xuất ra gạo. Vì vậy, thực chất của sự trao đổi là trao đổi lao động đã hao phí.
            Vậy giá trị hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.
         Đặc điểm:
-        Giá trị của hàng hoá biểu hiện mối quan hệ xã hội của những người sản xuất hàng hóa. Vì thế giá trị hàng hoá là một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hoá.
-        Giá trị là nội dung của hàng hoá còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bề ngoài của giá trị. Cái bề ngoài có thể thay đổi còn bên trong không thể thay đổi.
c)    Mối quan hệ giữa giá trị và giá trị sử dụng.
-        Giá trị và giá trị sử dụng thống nhất trong một hàng hoá, nhưng nó lại phản ánh mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng trong xã hội. Người sản xuất quan tâm đến giá trị, người tiêu dùng quan tâm đến giá trị sử dụng.
-        Giá trị và giá trị sử dụng là hai thuộc tính của hàng hoá được tạo ra trong sản xuất, nhưng khi thực hiện thì khác nhau về không gian và thời gian.
+        Giá trị được tạo ra trong sản xuất nhưng thực hiện trên thị trường.
+        Giá trị sử dụng được tạo ra trong sản xuất nhưng thực hiện trong tiêu dùng.
3.      Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
a)    Lao động cụ thể: Là lao động có ích với hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
-        Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng, do đó lao động cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng càng phong phú.
-        Mọi lao động cụ thể đều có thể khác nhau về mục đích, phương pháp, đối tượng, kết quả lao động riêng.
-        Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn, tuy nhiên hình thức của lao động cụ thể có thể thay đổi, phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động.
b)             Lao động trừu tượng. Là lao động của người sản xuất hàng hoá không kể đến hình thức biểu hiện cụ thể của nó để quy về cái chung đồng nhất, đó là sự hao phí sức lao động, tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh của người sản xuất hàng hoá
-     Lao động trừu tượng tạo nên giá trị hàng hoá. Chất của hàng hoá là lao động trừu tượng.
-     Lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong sản xuất hàng hoá. Bởi vì chỉ trong sản xuất hàng hoá mới đặt ra yêu cầu phải quy các lao động cụ thể vốn không so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng nhất có thể so sánh với nhau.
Vậy: Xét lao động cụ thể là xem lao động đó tiến hành như thế nào, sản xuất ra cái gì. Lao động trừu tượng là tốn bao nhiêu sức lực, hao phí bao nhiêu thời gian lao động. Cần thấy rằng không phải có hai thứ lao động được kết tinh trong một hàng hoá mà chí có lao động của ngươì sản xuất hàng hoá. Nhưng lao động đó có tính 2 mặt: 1 mặt là lao động cụ thể và một mặt là lao động trừu tượng.
c)        Mâu thuân cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn: Lao động tư nhân: là lao động riêng lẻ của người sản xuất hàng hoá do tính chất tự chủ mà mỗi người sản xuất lựa chọn sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào.
Lao động xã hội: là toàn bộ lao động của mỗi người sản xuất riêng lẻ nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội.
Mâu thuẫn giưa lao động tư nhân và lao động xã hội
-        Sản phẩm do người sản xuất hàng hoá cá biệt tạo ra có thể ăn khớp hay không ăn khớp với nhu cầu xã hội, cần thiết hay không cần thiết cho xã hội, không đủ cung cấp hay cũng có thể vượt quá nhu cầu xã hội.
-        Mức hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng hoá có thể cao thấp khác nhau so với mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận được. Nếu hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức xã hội chấp nhận thì hàng hóa không bán được hoặc ngược lại thì hàng hóa sẽ bán được lãi cao. Do đó, tất yếu diễn ra sự phân hoá xã hội, cạnh tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hóa để giành giật thị trường, lợi nhuận. Vì thế mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội còn chứa đựng khả năng sản xuất thừa.
3. Lượng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
a. Thước đo lượng giá trị hàng hoá
            Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất một loại hàng hoá nào đó trong đièu kiện sản xuất bình thường của xã hội với trình độ thành thạo trung bình và cường độ lao động trung bình. Hay nói cách khác đây là mức hao phí trung bình của xã hội.
            Thời gian lao động xã hội cần thiết là đại lượng không cố định luôn thay đổi phụ thuộc vào năng xuất lao động và lao động giản đơn, lao động phức tạp
 b. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng gía trị
  Năng xuất lao động: là hiệu xuất của lao động được biểu hiện bằng số lượng sản phẩm tạo ra trên một đơn vị thời gian hoặc là thời gian cần thiết để sản xuất ra 1 đơn vị sản phẩm.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng xuất lao động.
 +Tư liệu sản xuất: trình độ máy móc thiết bị, chất lượng nguyên vật liệu…
 + Người lao động: trình độ khéo léo nhanh nhẹn…
 + Trình độ quản lý, môi trường thể chế, chính sách…
Năng xuất LĐ tăng: +Số lượng sản phẩm tạo ra trong 1đơn vị thời gian sẽ tăng.
+ Giá trị của 1 đơn vị sản phẩm giảm.
+Tổng giá trị sản xuất trong 1đơn vị thời gian không đổi
 - Năng suất lao động tỷ lệ nghịch với lượng giá trị hàng hoá. Tăng năng xuất lao động để giảm giá trị hàng hoá nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh.
* Cường độ lao động: là mức hao phí lao động trên1 đơn vị thời gian nó phản ảnh mức độ khẩn trương của lao động.
Cường độ LĐ tăng : Số sản phẩm tạo ra trong 1 đơn vị thời gian tăng        
 Mức hao phí lao động / đơn vị sản phẩm không đổi
          Giá trị của 1đơn vị sản phẩm không thay đổi
  Lao động giản đơn, lao động phức tạp
         Lao động giản đơn: là sự hao phí lao động một cách thông thường mà bất kỳ 1 lao động bình thường nào không cần phải được đào tạo cũng có thể thực hiện được.
         Lao động phức tạp: Là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề
         - Trên thị trường sản phẩm đem ra trao đổi có thể là kết quả của lao động giản đơn hoặc lao động phức tạp. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Vì vậy, trong quá trình trao đổi, thị trường sẽ tự phát huy đổi các lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình cần thiết.
         c. Cấu thành lượng giá trị hàng hoá
Cơ cấu giá trị: Giá trị của hàng hoá gồm hai bộ phận:
         + Giá trị cũ (C): giá trị của tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm mới.
         + Giá trị mới (V+m): do lao động sống tạo ra
          G = C+ (V+m)
Vậy: lao động cụ thể có vai trò bảo toàn, chuyển dịch giá trị những TLSX vào giá trị sản phẩm hàng hoá, làm hình thành giá trị cũ C. Còn lao động trừu tượng tạo nên giá trị mới (V+m). Cần chú ý, lao động tạo nên giá trị là lao động trừu tượng, phần giá trị do nó tạo ra là giá trị mới (V +m). 

Câu 3. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ.

1. Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ
         a. Sự phát triển các hình thái giá trị
         Ø Hình thái giá trị giản đơn.
         - Hình thái này xuất hiện khi công xã nguyên thuỷ tan rã. Trong thời kỳ công xã nguyên thuỷ sản phẩm là của chung không có trao đổi sản phẩm. sang chế độ chiếm hữu nô lệ xuất hiện trao đổi, lúc đầu mang tính ngẫu nhiên, trực tiếp.
         Ví dụ: 1m vải = 5 kg thóc
         - Trong phương trình trao đổi.
         + Hàng hoá (vải): giá trị được biểu hiện ở một hàng hoá khác (thóc), hình thái giá trị tương đối.
         + Hàng hoá (thóc): dùng để biểu hiện giá trị cho hàng hoá khác (vải) gọi là vật ngang giá- mầm mống phôi thai của giá trị.
Hình thái giá trị tương đối và hình thái vật ngang giá là 2 mặt có liên quan nhau, không thể tách rời nhau. Vải hình thái giá trị tương đối đóng vai trò chủ động, thóc vật ngang giá đóng vai trò bị động. Vì người trao đổi vải chủ động đi tìm trong số các sản phẩm lấy thóc là vật ngang giá để trao đổi.
         Hình thái này chỉ tồn tại trong giai đoạn đầu khi việc trao đổi mang tính chất trực tiếp ngẫu nhiên chưa cố định.
         b .Hình thái giá trị đầy dủ.
         Khi LLSX và phân công lao động phát triển, trong xã hội thực hiện phân công lao động lần thứ hai tách chăn nuôi ra khổi trồng trọt hàng hoá đem trao đổi trên thị trường ngày càng thường xuyên hơn thì giá trị có hình thái đầy đủ hay mở rộng.
Ví dụ: 
         Hình thái vật ngang giá được mở rộng ra nhiều hàng hoá khác
Hình thái giá trị tương đối được thể hiện ở nhiều hàng hoá khác
         So với hình thái giá trị ngẫu nhiên thì hình thái giá trị đầy đủ có ưu điểm là tỷ lệ trao đổi cố định hơn trước. Nhưng có những nhược điểm
         + Khi xuất hiện nhiều hàng hoá mới thì biểu hiện tương đối của hàng hoá là vô tận .(1m vải đổi được 1Kg thóc, 2 con gà, 1 Kg thịt, 1 con cừu…)
         + Từ hình thái giá trị này nhiều biểu hiện giá trị khác nhau được hình thành
         Ví dụ: 10Kg cà phê=    1 bộ quần áo
                                                  20 Kg chè…
Có bao nhiêu hàng hoá thì có bấy nhiêu chuỗi trao đổi hàng hoá
         + Nhu cầu của người chủ hàng hoá là khác nhau. Nên khó khăn khi tìm những chủ hàng hoá có nhu cầu phù hợp để trao đổi.
         Ví dụ: người có rìu thì cần thóc, người có thóc lại cần cà phê, vải…               
         c. Hình thái chung của giá trị.
         Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động phát triển ở mức cao hơn thì trao đổi trực tiếp không phù hợp, để khắc phục khó khăn trên cần xã hội 1 loại hàng hoá được mọi người thừa nhận là đại biểu cho giá trị.
         Trong quá trình trao đổi hàng hoá xuất hiện 1 nhu cầu là những người chủ hàng hoá phải tìm được 1 hàng hoá nào đó mà được nhiều người thích đối với nó nhất để đổi hàng hoá của mình
         Hình thái chung của giá trị xuất hiện.
         Ví dụ:    5kg thóc
                      1 kg thịt     = 1 m vải  (là vật ngang giá làm trung gian trong trao đổi)
                      1 con cừu
         Người ta chọn 1m vải vật trung gian cố định làm căn cứ trao đổi được nhiều người yêu thích nhất.
         Từ công thức trao đổi có thể suy ra 5 Kg thịt =  1Kg thịt = 1 con cừu
         d. Hình thái tiền tệ.
         - Khi LLSX và phân công lao động tiếp tục phát triển, trao đổi bắt đầu vượt khỏi phạm vi các vùng thì việc mỗi vùng có 1 vật ngang giá chung khác thì gây khó khăn cho trao đổi. Từ đó cần thiết phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định ở 1 hàng hoá độc tôn thì hình thái tiền tệ của giá trị xuất hiện. Lúc đầu có nhiều hàng hoá đóng vai trò tiền tệ nhưng về sau chúng được cố định ở bạc và vàng cuối cùng là vàng.
         - Sở dĩ vàng được chọn làm vì nó có các thuộc tính tự nhiên thích hợp với vai trò này. Đó là dẽ chia nhỏ, dẽ dát mảng, ít hao mòn, một lượng nhỏ chứa đựng 1 lượng giá trị lớn.
         b.Bản chất của tiền tệ.
         Là 1 hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung thống nhất cho tất cả các hàng hoá khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.
         2.Chức năng của tiền tệ          
         a. Thước đo giá trị.
         - Tiền dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của hàng hoá. (đây là chức năng cơ bản của tiền)
          - Muốn làm chức năng thước đo giá trị, bản thân tiền phải có giá trị, cũng như muốn dùng quả cân để đo trọng lượng của một vật thì bản thân quả cân phải có trọng lượng. Giá trị của tiền không phải do thuộc tính tự nhiên của tiền mà do thời gian cần thiết để sản xuất ra vàng. (chính là hao phí xã hội cần thiết để sản xuất ra vàng)
- Giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng tiền thì gọi là giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá do các nhân tố sau đây quyết định.
         + Giá trị hàng hoá: tỷ lệ thuận với giá cả hàng hoá
         + Giá trị của tiền : tỷ lệ nghịch với giá cả. .( giá trị tiền á       Giá cả â)
         + Quan hệ cung cầu : cung > cầu è giá cả < giá trị
                                                cung < cầu è giá cả > giá trị
                                                Cung = cầu è  giá cả  =  giá trị
         - Đơn vị đo lường tiền tệ : là 1 khối lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ. Ở mỗi nước thì đơn vị tiền tệ có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó gọi là tiêu chuẩn giá cả.
Tiền là thước đo giá trị chung để đo lường giá trị các hàng hoá khác. Là tiêu chuẩn giá cả tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền.
         b. Phương tiện lưu thông.
       - Tiền làm phương tiện lưu thông tức là làm môi giới trong trao đổi hàng hoá. Công thức của lưu thông hàng hoá là H - T – H. Ở đây có sự tách rời giữa quá trình mua và bán.
         - Thực hiện chức năng lưu thông, lúc đầu người ta dùng vàng thoi, bạc nén nhưng khó khăn khi chia nhỏ, nên dần dần được thay bằng tiền đúc. Tuy nhiên, viêc lưu thông tiền đúc cũng làm cho tiền đúc bị hao mòn dần và không còn đầy đủ giá trị ban đầu nhưng vẫn được chấp nhận như tiền đủ giá trị. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy, bản thân tiền giấy không có giá trị, nhưng do Nhà nước phát hành và buột xã hội công nhận.
         c. Phương tiện cất giữ.
         - Của cải tồn tại dưới dạng tiền tệ là thuận tiện nhất cho con người. Có thể tích luỹ hay cất trữ của cải dưới dạng tiền tệ, vì tiền tệ là vật ngang giá chung cho các hàng hoá khác.
         - Chức năng này đòi hỏi tiền tệ phải đủ giá trị (tiền vàng, bạc), tiền tệ rút khỏi lưu thông và chỉ tung vào lưu thông khi cần thiết.
         d. Phương tiện thanh toán.
         - Tiền làm phương tiện thanh toán gắn liền với sự phát triển của chế độ tín dụng. Dùng để chi trả sau các giao dịch, mua bán, trả nợ, nộp thuế…
         - Tiền làm chức năng phương tiện thanh toán một mặc làm xuất hiện kiểu khấu trừ không dùng tiền mặt, mặt khác nó phát triển hệ thống chủ nợ và con nợ tạo ra nguy cơ khủng hoảng dây chuyền.    
          e. Tiền tệ thế giới.
         Thực hiện chức năng này, tiền tệ được sử dụng trong quan hệ kinh tế quốc tế như: quan hệ thương mại quốc tế, quan hệ tín dụng quốc tế…Thực hiện chức năng tiền tệ thế giới phải là tiền vàng hoặc là ngoại tệ mạnh, có giá trị ổn định và sức chuyển đổi cao.
Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật lưu thông tiền tệ quy định số lượng tiền cần thiết cho lưu thông ở mỗi thời kỳ nhất định
- Khối lượng tiền làm chức năng phương tiện lưu thông được tính bằng công thức:      
M: Khối lượng tiền cần thiết.
P: mức giá
V: Số vòng luôn chuyển trung bình của 1 đơn vị tiền tệ

Khi tiền thực hiệnc hức năng phương tiện thanh toán thì
M: Số lượng tiền cần cho lưu thông
1: Tổng giá trị hàng hoá dịch vụ lưu thông
2: Tổng giá cả hàng hoá bán chịu
3: Tổng giá cả hàng hoá khấu trừ.
4: Tổng giá cả hàng hoá đến kỳ thanh toán
5: số vòng luôn chuyển trung bình của 1 đơn vị tiền tệ
Lạm phát: khi lượng tiền giấy đưa vào lưu thông vượt quá số lượng vàng hoặc bạc cần thiết cho lưu thông dẫn đến hiện tượng giá cả tăng nhanh chóng đồng tiền bị mất giá.  
Câu 4. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản và hai thuộc tính hàng hóa sức lao động.

Công thức chung của tư bản: T – H – T’
 Vì sự vận động  của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù đó là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay. Điều này rất dễ dàng nhận thấy trong thực tiễn, bởi vì hình thức vận động của tư bản thương nghiệp là mua vào để bán ra đắt hơn, rất thích hợp với công thức trên. Tư bản công nghiệp vận động phức tạp hơn, nhưng dù sao cũng không thể tránh khỏi những giai đoạn T – H và H – T’. Còn sự vận động của tư bản cho vay để lấy lãi chẳng qua chỉ là công thức trên được rút ngắn lại T – T’. C.Mác chỉ rõ: “ Vậy T – H – T’ thực sự là công thức chung của tư bản, đúng như nó trực tiếp thể hiện ra trong lĩnh vực lưu thông”.
+Công thức chung của tư bản:
Phân biệt: tiền thông thường (tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn) và tiền là tư bản (trong lưu thông của tư bản): tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn, vận động theo cộng thức (1) H-T-H’; tiền là tư bản vận động theo công thức (2) T-H-T’.
Điểm giống nhau: Cả 2 sự vận động đều do 2 giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, đều có 2 yếu tố tiền & hàng, đều có 2 người có wan hệ kinh tế với nhau là người mua & người bán. Nhưng đó chỉ điểm jống nhau về hình thức.
Điểm khác nhau về chất giữa 2 hình thức:
H-T-H’
T-H-T’
Điểm xuất phát & điểm kết thúc của quá trình vận động
Đều là hàng hóa, tiền đóng vai trò trung gian
Đều là tiền, hàng hóa đóng vai trò trung gian
-Trình tự vận động
Bắt đầu là việc bán, kết thúc = việc mua
Bắt đầu = việc mua, kết thúc = việc bán
-Mục đích vận động
Là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu
Là giá trị hơn nữa là giá trị tăng them
Giới hạn vận động
Có giới hạn
Ko có giới hạn
-tóm lại: công thức (2) phản ánh mục đích vận động là tiền với tư cách là tư bản, nên lượng giá trị sau quay về phải lớn hơn giá trị ban đầu, vậy công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’, trong đó T’=T+Dt, (Dt là giá trị thặng dư, kí hiệu là m). Như vậy công thức T-H-T’ là công thức chung của tư bản, vì mọi tư bản đều vận động theo công thức này.
Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản 
Lý luận giá trị đã chứng minh rằng: Giá trị của hàng hóa do lao động của những người sản xuất hàng hóa tạo ra trong sản xuất. Nhưng nhìn vào công thức T-H-T’ người ta dễ lầm tưởng rằng tiền tệ cũng tạo ra giá trị khi vận động trong lưu thông.
Thực chất thì bản thân tiền, dù ở ngoài hay ở trong lưu thông, cũng không tự lớn lên được. Tiền không thể sinh ra tiền là điều hiển nhiên.
Còn lưu thông thuần túy, dù diễn ra ở bất cứ hình thức nào, kể cả việc mua rẻ bán đắt, cũng không làm tăng thêm giá trị, không tạo ra
giá trị thặng dư; ở đây chỉ có sự phân phối lại lượng giá trị có sẵn trong xã hội mà thôi bởi nếu mua rẻ thứ này thì sẽ lại phải mua đắt
thứ kia; bán đắt thứ này thì lại phải bán rẻ thứ khác, vì tổng khối lượng hàng và tiền trong toàn xã hội ở một thời gian nhất định là
một số lượng không đổi. Tuy vậy, không có lưu thông cũng không tạo ra được giá trị thặng dư. Do đó, mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là giá trị thặng dư không do lưu thông đẻ ra nhưng lại được tạo ra thông qua lưu thông. Sở dĩ như vậy vì nhà tư bản tìm được trên thị trường một loại hàng hóa đặc biệt có khả năng tạo ra giá trị thặng dư cho mình. Đó là hàng hóa sức lao động.
Hàng hóa sức lao động. 
Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của con người, là khả năng lao động của con người. Sức lao động là yếu tố cơ bản của mọi
quá trình sản xuất. Nó chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:
Người có sức lao động được tự do thân thể, được quyền làm chủ sức lao động của mình để có thể đi làm thuê (bán sức lao động).
Họ không có tư liệu sản xuất và của cải khác để sinh sống, buộc phải đi làm thuê, tức là bán sức lao động của mình. Sức lao động khi trở thành hàng hóa, nó vừa có hai thuộc tính như hàng hóa thông thường vừa có đặc điểm riêng.
Giá trị hàng hóa sức lao động cũng bằng lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó. Nhưng việc sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động phải được thực hiện bằng cách tiêu dùng cho cá nhân. Vì vậy, lượng giá trị hàng hóa sức lao động bằng lượng giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết về vật chất và tinh thần để nuôi sống người công nhân, gia đình anh ta và chi phí đào tạo công nhân theo yêu cầu của sản xuất. Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.
Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động là công dụng của nó để thỏa mãn nhu cầu người mua là sử dụng vào quá trình lao động. Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động khi được sử dụng, nó tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Hàng hóa sức lao động là điều kiện để chuyển hóa tiền tệ thành tư bản. Đây cũng chính là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Như vậy, tiền tệ chỉ trở thành tư bản khi nó được sử dụng làm phương tiện để mang lại giá trị thặng dư cho người có tiền và người có tiền phải tìm được một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động.

Câu 5. Tích lũy, tích tụ và tập trung tư bản. Ý nghĩa từ việc nghiên cứu.

* Tích tụ TB: là sự tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa GTTD. Vậy tích tụ TB là kết quả trực tiếp của tích lũy TB. Tích tụ TB do yêu cầu của việc mở rộng SX, ứng dụng tiến bộ kĩ thuật. Mặt khác, khi khối lượng GTTD tăng thêm lại tạo khả năng hiện thực cho tích tụ TB mạnh hơn.
* Tập trung TB: là sự tăng thêm quy mô của TB cá biệt bằng cách hợp nhất những TB cá biệt có sẵn trong XH thành một TB cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và tín dụng là những đòn bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung TB.
- Do cạnh tranh mà dẫn tới sự liên kết tự nguyện hay sáp nhập các TB cá biệt.
- Tín dụng TBCN là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong XH vào tay các nhà TB.
* So sánh tích tụ TB và tập trung TB:
- Giống nhau: đều làm tăng quy mô của TB cá biệt.
- Khác nhau:
Tích tụ TB
Tập trung TB
- Nguồn gốc: là GTTD được TB hóa.
- Quy mô: TB cá biệt tăng và TB XH tăng
- Quan hệ: giữa nhà TB và LĐ.
- Giới hạn: khối lượng GTTD có được
- Nguồn gốc: là những TB cá biệt đã hình thành sẵn trong XH,
 - Quy mô: TB cá biệt tăng nhưng quy mô TB XH vẫn như cũ.
- Quan hệ: giữa nhà TB với nhà TB; giữa TB và LĐ.
- TB tập trung từng ngành, khác ngành, toàn XH (số TB cá biệt trong một ngành trong XH.

* Vai trò của tập trung TB trong sự phát triển của CNTB:
            + Nhờ có tập trung TB mà có thể tổ chức được một cách rộng lớn LĐ hợp tác, biến quá trình SX rời rạc, thủ công thành quá trình SX phối hợp theo quy mô lớn và được xếp đặt một cách khoa học, xây dựng được những công trình công nghiệp lớn, sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
            + Tập trung TB làm cho cấu tạo hữu cơ TB tăng lên, nhờ đó NSLĐ tăng lên nhanh chóng. Vì vậy, tập trung TB trở thành đòn bẩy mạnh mẽ của tích lũy TB
            + Quá trình tích tụ và tập trung TB ngày càng tăng, do đó, nền SX TBCN cũng ngày càng trở thành nền SX xã hội hóa cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của CNTB càng sâu sắc thêm.
* Ý nghĩa nghiên cứu:
            + Tích tụ và tập trung TB là các con đường làm cho quy mô vốn tăng lên.
+ Việc tập trung TB có ý nghĩa to lớn đối với CNTB trong việc tăng nhanh quy mô TB để cải tiến kỹ thuật, ứng dụng thành tựu KHCN mới, tăng NSLĐ để giành thắng lợi trong cạnh tranh
+ Đối với nước ta, cần hình thành những tập đoàn kinh tế có quy mô vốn lớn. Từ đó, nước ta mới có điều kiện tham gia cạnh tranh trong điều kiện hội nhập nền kinh tế nước ta với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới
+ Quy mô vốn lớn còn là điều kiện, tiền đề nhằm đẩy mạnh CNH-HĐH ở nước ta hiện nay.


Câu 6. Lợi nhuận và lợi nhuận bình quân trong CNTB.

Lợi nhuận và lợi nhuận bình quân trong CNTB.
Lợi nhuận
Chi phí thực tế sản xuất tạo ra giá trị hàng hoá: Để tiến hành sản xuất, nhà TB phải chi phí một lượng lao động nhất định, đó là:
- Lao động quá khứ (ký hiệu là c)
- Lao động sống tạo ra giá trị mới (ký hiệu là v + m)
G = c + v + m
Chi phí sản xuất TBCN: Để tiến hành sản xuất nhà TB phải ứng TB (ứng một lượng tiền ra) để mua tư liệu sản xuất (c); ứng TB để mua hàng hoá sức lao động (v) Chi phí sản xuất TBCN - TB ứng trước (k)
K = c + v
So sánh: Giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất TBCN khác nhau cả về lượng và về chất:
- Về lượng, G bao giờ cũng lớn hơn K
- Về chất, G là chi phí lao động liên quan đến việc hình thành giá trị hàng hoá, còn K không liên quan đến việc hình thành giá trị hàng hoá
Lợi nhuận: Giữa giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất TBCN sau khi bán hàng hoá nhà TB đã đủ bù đắp TB ứng ra, thu được một phần lời ngang bằng với m gọi là lợi nhuận (ký hiệu là P).
G - K = m = P  mà K = c + v => G = c + v + m  => G = K + m => G = K + P
Kết luận: Lợi nhuận che giấu bản chất bóc lột của CNTB, xoá nhoà ranh giới giữa c và v, xoá nhoà nguồn gốc tạo ra m. Khi nói đến m hàm ý so sánh với v, khi nói đến P hàm ý so sánh với TB ứng trước bỏ vào sản xuất kinh doanh.
Tỷ suất lợi nhuận:
Là tỷ lệ phần trăm giữa m với toàn bộ TB ứng trước bỏ vào sản xuất kinh doanh (P').
P' =                       m' =
So sánh giữa tỷ suất m (m') và P' khác nhau cả về lượng và về chất:
- Về lượng, m' bao giờ cũng lớn hơn P'
- Về chất, m' nói lên mức độ bóc lột của nhà TB đối với lao động làm thuê, còn P' chỉ cho nhà TB biết đầu tư nơi nào có lợi nhất.
Phương án 1: 80c + 20v + 20m (m' = 100%; p' = 20%)
Phương án 2: 70c + 30v + 30m (m' = 100%; p' = 30%)
Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất
* Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá cả thị trường
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, SX cùng một loại hàng hóa nhằm mục đích giành ưu thế trong SX và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành thể hiện: cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa SX nâng cao chất lượng hàng hóa cải tiến mẫu mã… làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa do xí nghiệp SX ra thấp hơn giá trị XH để thu được lợi nhuận siêu ngạch
Kết quả cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến hình thành giá trị XH của hàng hóa (hay giá trị thị trường của hàng hóa) làm cho điều kiện SX trung bình của một ngành thay đổi, giá trị XH của hàng hóa giảm xuống, chất lượng hàng hóa được nâng cao, chủng loại hàng hóa phong phú
* Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp TB kinh doanh trong các ngành SX khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Do điều kiện SX không giống nhau giữa các ngành SX trong XH, vì thế lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của họ thu được cũng không giống nhau nên các nhà TB phải chọn ngành nào có tỷ suất lợi nhuận cao nhất để đầu tư.
Sự hình thành lợi nhuận bình quân đã làm cho quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn tự do cạnh tranh của CNTB thể hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân.
Sự hình thành giá cả SX
Khi hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả SX. Giá cả SX là giá cả bằng chi phí SX cộng lại với lợi nhuận bình quân.
Giá cả SX = K + p
Giá trị là cơ sở của giá cả SX. Giá cả SX là cơ sở của giá cả thị trường, giá cả SX điều tiết giá cả thị trường, giá cả thị trường xoay quanh giá cả SX. Khi giá trị của hàng hóa chuyển hóa thành giá cả SX thì quy luật giá trị có hình thức biểu hiện là quy luật giá cả SX
Ý nghĩa nghiên cứu:
+ Việc hình thành lợi nhuận bình quân chỉ rõ sự tranh giành nhau về mặt quyền lợi giữa các nhà TB. Vạch rõ toàn bộ giai cấp TS tham gia bóc lột toàn bộ giai cấp công nhân, giai cấp công nhân phải đấu tranh với tư cách là một giai cấp, đấu tranh kinh tế kết hợp chính trị.
+ Lợi nhuận bình quân và giá cả SX che giấu nguồn gốc GTTD, làm cho người ta nhầm tưởng, cứ đầu tư một lượng TB như nhau thì thu được lợi nhuận như nhau, dẫn đến quan điểm TB sinh lợi nhuận
+ Sự hình thành lợi nhuận bình quân cho thấy cạnh tranh gay gắt có tác dụng ngăn cản độc quyền. Mặt khác, cạnh tranh thôi thúc các nhà TB cải tiến kỹ thuật SX, thúc đẩy LLSX phát triển
+ Cạnh tranh dẫn đến đa dạng hóa chủng loại hàng hóa, giá cả hàng hóa rẻ hơn, ngành nghề được mở rộng, sản phẩm mới ngày càng tăng
Câu 7. Các đặc trưng kinh tế của CNTB độc quyền.

a. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền:
- Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc trưng kinh tế cơ bản của CN đế quốc:
+ Khi bắt đầu chuyển sang CNTB- ĐQ thì hình thức thống trị là công ty cổ phần. Những liên minh độc quyền này đầu tiên hình thành theo sự liên kết ngang ( cùng ngành) dưới hình thức: Cácten, Xanhđica, Trớt.
+ Sau đó là sự liên kết dọc. Sự liên kết này không chỉ các xí nghiệp lớn mà cả các Xanhđica, Trớt thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan với nhau về kinh tế - kỹ thuật dẫn đến hình thành các công ty độc quyền lớn như: Côngxoocxiom. Nhưng từ giữa thế kỷ 20 đã phát triển lên một hình thức mới: liên kết đa ngành hình thành các công ty lớn như: Cônglômêrát, Consơn thâu tóm nhiều công ty xí nghiệp thuộc những ngành công nghiệp khác nhau.
Khái niệm: Tổ chức độc quyền là liên minh những nhà TB lớn để tập trung vào trong tay một phần lớn (thậm chí toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó.
- Vị trí, vai trò: Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền.
+ Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự chệnh lệch rất lớn so với giá cả sản xuất:
* Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa bán ra.
* Họ định ra giá cả độc quyền thấp hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mua vào, qua đó thu được lợi nhuận độc quyền.
Vậy giá cả độc quyền là: Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + P độc quyền. Nhưng giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư, vì xét trên phạm vi toàn xã hội thì: Tổng giá cả vẫn bằng tổng giá trị; tổng số lợi nhuận vẫn bằng tổng số giá trị thặng dư.
Do đó những gì mà độc quyền thu được cũng là cái mà tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước TB, thuộc địa mất đi.
Như vậy ta thấy: Độc quyền ra đời từ cạnh tranh và giữ vai trò thống trị, nhưng nó không thủ tiêu được cạnh tranh; độc quyền và cạnh tranh tồn tại song song và thống nhất với nhau một cách biện chứng. Tuy nhiên trong thời đại Đế quốc chủ nghĩa thì tính chất cạnh tranh khác hẳn thời kỳ tự do cạnh tranh về mức độ và hình thức.
b. TB tài chính và bọn đầu sỏ tài chính:
- Song song với qúa trình tích tụ và tập trung sản xuất, thì trong ngành ngânhàng cũng diễn ra một quá trình tương tự. Hình thành các tổ chức độc quyền ngân hàng.
- Sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng đã làm thay đổi vai trò của ngân hàng:
+ Từ chỗ là trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay do nắm được phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng đã có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động kinh tế xã hội:
* Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay và nhận gửi số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp tring một thời gian dài, nên lợi ích của chúng quyện chặt vào nhau. Hai bên đều quan tâm đến hoạt động của nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau, hình thành nên TB tài chính.
- Khái niệm: TB tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vàp nhau giữa TB độc quyên trong ngân hàng và TB độc quyền trong công nghiệp.
- Sự phát triển của TB tài chính đã dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ hệ thống kinh tế, chính trị xã hội của xã hội TB. Đó chính là bọn đầu sỏ tài chính.
* Bọn đầu sỏ tài chính thực hiện sự thống trị của mình bằng "chế độ tham dự" với số phiếu khống chế mà chi phối được công ty gốc (công ty mẹ) -> chi phối công ty con ->chi phối công ty cháu… Như vậy chỉ bằng một số TB nhất định một đầu sỏ tài chính có thể chi phối được những lĩnh vực sản xuất 
c. Xuất khẩu tư bản:
- Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị thặng dư.
- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản đó.
- Xuất khẩu tư bản là tất yếu:
+ Vì trong các nước tư bản có hiện tượng "thừa tư bản".
+ Giá trị nguyên liệu và nhân công ở các nước chậm phát triển rẻ, nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật
+ Thị trường tiêu thụ hàng hóa rộng lớn.
- Hình thức xuất khẩu TB:
+ Xuất khẩu tư bản trực tiếp: Xây dựng các xí nghiệp, trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận,....
+ Xuất khẩu tư bản gián tiếp: Cho vay tư bản để thu lợi tức….
- Xuất khẩu TB vừa có tác dụng tích cực vừa có tác dụng tiêu cực, đặc biệt là đối với các nước nhận đầu tư, có thể dẫn tới tình trạng lệ thuộc về kinh tế, dẫn tới lệ thuộc về chính trị. 
d. Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế
Việc xuất khẩu TB tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến việc phân chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư TB, phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền quốc tế với nhau... Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế: Cacten, Xanhđica, Trớt quốc tế. Nhưng giữa cac tổ chức này luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh lẫn nhau… tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế.
e. Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc 
Lợi ích của việc xuất khẩu TB đã thúc đẩy các cường quốc TB đi xâm chiếm thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Do tcác động đó, đặc biệt là do tác động của quy luật phát triển không đều của CNTB đó là những
nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, cũng như các cuộc xung đột nóng ở nhiều khu vực trên thế giới hiện nay...
Như vậy: chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn ra và thống trị ở nước ngoài của tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà nước.
Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu hiện trong đường lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ thống thuộc địa của các cường quốc nhằm đáp ứng yêu cầu thu siêu lợi nhuận độc quyền của tư bản độc quyền


Câu 8. Nguyên nhân ra đời của CNTB độc quyền Nhà nước và vai trò của nó trong xã hội tư bản ngày nay.

Các Nguyên nhân ra đời của CNTB độc quyền Nhà nước và vai trò của nó trong xã hội tư bản ngày nay.
1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Sự phát triển cao của trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn xã hội quản lý nền sản xuất.
- Sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự tác động của khoa học - kỹ thuật làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế thay đổi, xuất hiện một số ngành mà tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư kinh doanh, vì dầu tư vốn lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng. Bởi vậy, cần phải có sự giúp đỡ đầu tư và can thiệp của nhà nước.
- Sự thống trị của độc quyền làm tăng thêm tính đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động, đòi hỏi nhà nước tư sản phải có những chính sách để xoa dịu những mâu thuẫn đó.
- Sự mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại và sự hoạt động bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, đòi hỏi nhà nước tư sản phải đứng ra bảo hộ tạo môi trường quốc tế hỗ trợ các tổ chức độc quyền tư nhân, mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chuyển dịch các mâu thuẫn đối kháng ra ngoại vi, nhằm giảm bớt mức độ gay gắt mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự thống nhất của ba quá trình:
- Tăng sức mạnh của tổ chức độc quyền.
- Tăng vai trò kinh tế của nhà nước tư sản.
- Kết hợp sức mạnh độc quyền tư nhân với nhà nước tư sản trong một cơ chế thống nhất, nhằm bảo trì và thúc đẩy CNTB phát triển.
Về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ không phải là một chính sách của nhà nước tư sản trong giai đoạn độc quyền thống trị. Nó là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nghĩa trước sự phát triển mạnh của lực lượng sản xuất và tính xã hội hóa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.
Vai trò của nó trong xã hội tư bản ngày nay 
Xét về bản chất CNTB độc quyền nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư bản, chịu sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư, mặc dù đã có nhiều thay đổi so với chủ nghĩa tư bản thời kỳ canh tranh tự do.
- CNTB độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng nóc vẫn chưa thoát khỏi chủ nghĩa tư bản độc quyền.
- CNTB độc quyền nhà nước chỉ là một nấc thang mới so với chủ nghĩa tư bản độc quyền thời kỳ đầu.
Đặc điểm nổi bật của CNTB độc quyền nhà nước là sự can thiệp, sự điều tiết của nhà nước về kinh tế.
Như vậy CNTB độc quyền nhà nước không phải là một chế độ kinh tế mới so với CNTB, lại càng không phải chế độ tư bản mới so với CNTB độc quyền. CNTB độc quyền nhà nước chỉ là CNTB độc quyền có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước về kinh tế, là sự kết hợp sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh của nhà nước về kinh tế.
2. Những biểu hiện chủ yếu của CNTB độc quyền nhà nước.
a. Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản:
- Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện
+ Thông qua các đảng phải tư sản.
+ Thông qua các hội chủ xí nghiệp:
* Các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham giai vào bộ máy nhà nước
* Các quan chức chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền.
b. Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước:
- CNTB độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng nổi bật nhất là sức mạnh của sđộc quyền và nhà nước kết hợp với nhau trong lĩnh vựs kinh tế; Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh tế là sự thay đổi các quan hệ sở hữu:
* Sở hữu nhà nước tăng lên.
* Quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền được tăng cường trong quá trình chu chuyển của tổng tư bản xã hội.
+ Sở hữu nhà nước được hình thành dưới những hình thức:
* Xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách.
* Quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại
* Nhà nước mua cổ phiếu cảu các doanh nghiệp tư nhân.
* Mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân .
c. Sự điều tiết kinh tế cua nhà nước tư sản:
- Nhà nước tư sản dung hợp cả 3 cơ chế: Thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Xét đến cùng và về bản chất, hệ thống điều tiết đó phục vụ cho CNTB độc quyền.


Câu 9. Tính tất yếu của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế các phương thức sản xuất, nhưng không phải phương thức sản xuất này kết thúc hoàn toàn rồi mới ra đời phương thức sản xuất khác. Giữa phương thức sản xuất cũ và phương thức sản xuất mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ, mà ở đó kết cấu kinh tế - xã hội cũ bị suy thoái dần, kết cấu kinh tế - xã hội mới ra đời, lớn mạnh dần và tiến tới giữ địa vị thống trị.

Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển. Bởi lẽ, ở các nước này tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hóa mới. Đối với những nước thuộc loại này, có nhiều thuận lợi hơn, do vậy thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì càng phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài.

Việt Nam, quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử vì:

- Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã và đang xây dựng là giải phóng con người, vì sự phát triển tự do, toàn diện của con người, vì sự tiến bộ chung của loài người, là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.

- Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ đi theo con đường này nhân dân ta làm Cách mạng Tháng Tám thành công, đã thắng lợi hay cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự lựa chọn như vậy là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc Việt Nam lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại.

Câu 10. Tính tất yếu khách quan và sự cần thiết của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH.


I. Thời kỳ qúa độ lên CNXH ở Việt Nam:

b. Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ qúa độ là: sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và tương ứng với nó có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của các giai cấp trong xa hội đã thay đổi một cách sâu sắc.

- Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần về khách quan và lâu dài có lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế.

Tuy các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nhưng không phải là quá độ trực tiếp mà phải qua con đường gián tiếp với một loạt những bước quá độ thích hợp thông qua chính sách "kinh tế mới"

Chính sách kinh tế mới có ý nghĩa to lớn về cả lý luận và thực tiễn. ở nước ta khi bước vào thời kỳ đổi mới những quan điểm kinh tế của Đảng ta đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng chính sách kinh tế mới của Lênin phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của thời kỳ quá độ ở nước ta.

2. Tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam:

a. Tính tất yếu:

Vận dụng lý luận của Lênin vào hoàn cảnh của Việt Nam Đảng ta đã xác định: thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây dựng CNXH dù điểm xuất phát ở trình độ cao hay thấp - vì vậy thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử, bởi vì:

- Một là: Phát triển theo con đường XHCN là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử: Loài người đã phát triển qua 5 hình thái kinh tế xã hội, sự biến đổi đó là một quá trình lịch sử tự nhiên, đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

- Hai là: Phát triển theo con đường CNXH không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại mà còn phù hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam

+ Trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta đã xác định, cách mạng Việt Nam sẽ trải qua hai gia đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, và cách mạng XHCN, như vậy cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân gắn liền với cách mạng XHCN. Như vậy theo lý luận cách mạng không ngừng của Lênin thì cuộc cách mạng XHCN là cuộc cách mạng hợp lôgic, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc dân chủ được thực hiện triệt để.

b. Đặc điểm:

Nếu như thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu với mọi quốc gia đi lên CNXH. Nhưng nó lại có đặc điểm riêng đối với mỗi quốc gia. Dặc điểm đó xác định nội dung, phương hướng, bước đi, biện pháp của thời kỳ quá độ ở mỗi nước.

- Đối với VIệt Nam: Cả hai giai đoạn 1954 khi miền Bắc quá độ lên CNXH và từ sau năm 1975 cá nước quá dộ lên CNXH thì đặc điểm là:

+ Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp.

+ Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh hậu quả để lại còn nặng nề.

+ Những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều.

+ Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội và nền độc lập của nhân dân ta

( Cương lĩnh (bổ sung) xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH- Văn kiện Đại hội Đảng XI- 2011).

Như vậy, Đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước ta là bỏ qua chế độ TBCN. Nhưng bỏ qua chế độ TBCN không phải là phủ định sạch trơn , đối lập CNXH với CNTB, bỏ qua cả những cái "không thể bỏ qua" như đã từng xảy ra ở các nước XHCN trước đây. Quan điểm của Đại hội I X Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: " Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN; Tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dứơi chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và cộng nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại"

Do vậy bỏ qua chế độ TBCN thưc chất là phát triển theo con đường " rút ngắn" quá trình đi lên CNXH. Nhưng rút ngắn không phải là đốt cháy giai đoạn, duy ý chí coi thường quy luật. Trái lại, phải tôn trọng quy luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thức, bước đi thích hợp; Phải biết kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở CNTB không chỉ về LLSX, mà cả về QHSX, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng ( KTTT) .

Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường rút ngắn để xây dựng đất nước văn minh, hiện đại. Để thực hiện được con đường đó, trong điều kiện kinh tế lạc hậu, nhưng nước ta vẫn có khả năng và tiền đề để quá dộ lên CNXH, đó là khả năng khách quan và những tiền đề chủ quan ( xem giáo trình T193-194).

3. Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diên xã hội cũ thành xã hội mới. Về kinh tế, những nhiệm vụ cơ bản là:

a. Phát triển LLSX, coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH

- Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH theo Lênin, là nền sản xuất đaị cơ khí ở trình độ hiện đại được áp dụng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân , kể cả trong nông nghiệp.

- Ngày nay, cơ sỏ vật chất của CNXH phải thể hiện được những thành tựu tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, bởi vì chỉ khi lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ coa mới tạo được năng suất lao động cao trong toàn bộ nề kinh tế quốc dân...

- Trong điều kiện của Việt Nam, qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN khi đất nước ta chưa có tiền đề về cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH do CNTB tạo ra. Do đó phát triển lực lượng sản xuất nói chung, công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH- HĐH) nói riêng trở thành nhiệm vụ trung tâm của suốt thời kỳ quá độ. Nó có tính chất quyết định đối với thắng lợi của CNXH ở Việt Nam.

- Đồng thời một nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác của phát triển lực lượng sản xuất thực hiện CNH- HĐH là phát triển nguồn lực con người - lực lượng sản xuất cơ bản của đất nước, yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế… Vì vậy phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam. Chính vì vậy, quan điểm của Đảng ta đã thể hiện rõ: coi phát triển giáo dục và đào tao, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của CNH- HĐH, là "quốc sách hàng đầu" trong chiến lược phát triển đất nước.

b. Xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN

- Xây dựng quan sản xuất mới XHCN là một việc làm lâu dài, thận trọng không thể nôn nóng, vội vàng, duy ý chí được. Vì vậy xây dựng quan hệ snả xuất mới đinh hướng XHCN ở nước ta phải đảm bảo các yêu cầu sau:

+ Một là: Quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất. "Bất kỳ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới".

+ Hai là: Quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, do đó quan hệ sản xuất mới phải được xây dựng một cách đồng bộ trên cả ba mặt đó.

+ Ba là: Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới theo đinh hướng XHCN là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.

Đồng thời trong thời kỳ quá độ nước ta còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN đồng thời phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và hợp lý cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.

c. Mở rộng và nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế.

- Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế và sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu đối với các quốc gia. Nền kinh tế nước ta không thể khép kín mà tích cực mở rộng và ngày càng nâng cao hiệu qủa quan hệ kinh tế quốc tế.

+ Toàn cầu hóa kinh tế và cách mạng khoa học công nghệ hiện đại tạo ra những thách thức và nguy cơ cần đề phòng khắc phục; mặt khác, tạo ra cho nước ta những cơ hội thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước theo con đường "rút ngắn". Đó là thu hút được các nguồn vốn từ bên ngoài, tiếp thu được những công nghệ hiện đại, kinh nghiệp quản lý tiên tiến...

Vì vậy để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế quóc tế phải nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, khai thác thị ttrường thế giới, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế với các tổ chức và quốc gia trong khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, phải xử lý đúng đắn các mối quan hệ giữa mở rộng kinh tế quóc tế với độc lập tự chủ, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thi tinh hóa văn hóa nhân loại.

II. Sở hữu về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

1. Sở hữu tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

- Sở hữu là một phạm trù kinh tế biểu hiện các quan hệ giã người với người đối với việc chiếm hữu của cải vật chất, trước hết là đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu. Sở hữu tư liệu sản xuất quy định mục đích của sản xuất, hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh, phương thức quản lý, phân phối sản phẩm và cơ chế điều tiết chúng. Mỗi phương thức sản xuất có một hình thức sở hữu tư liệu sản xuất đặc trưng

- Trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam có 3 loại hình sở huu cơ bản:

+ Sở hữu toàn dân.

+ Sở hữu tập thể.

+ Sở hữu tư nhân.

Mỗi loại hình sở hữu lại có nhiều hình thức sở hữu ở nhiều mức độ chín muồi khác nhau. Các hình thức sở hữu TLSX tồn tại khách quan, lâu dài, đan xen nhau, từ đó mà hình thành nhiều thành phần kinh tê, nhiều tổ chức liên doanh, liên kết. Trong các hình htức sở hữu nói trên thì sở hữu công hữu những TLSX chủ yếu là nền tảng, là đặc trưng của CNXH.

2. Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:

a. Tính tất yếu khách quan và vai trò của nền kinh tế nhiều thành phần:

- Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chx với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế. Chúng cùng tồn tại và phát triển như một tổng thể, giữa chúng có quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau

Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần làđặc trưng trong thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan. Bới vì:

+ Một số thành phần kinh tế của phương thức sản xuất cũ như: kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân... để lại chúng đang còn có tác dụng đối với sự phát triển LLSX.

+ Một số thành phần kinh tế mới hình thành trong quá trình cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới như: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước. Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại khác quan, có quan hệ với nhau cấu thành cơ cấu kinh tế, trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.

Sự tồn tại nền nhiều thành phần kinh tế là một hiện tượng khách quan cho nên chúng đều có tác dụng tích cực đói với sự phát triển của LLSX. Những thành phần kinh tế đặc trưng cho PTSX cũ chỉ mất đi khi không còn tác dụng đối với sự phát triển LLSX.

Nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá lên CNXH, suy cho dến cùng là do quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX quy định. Thời kỳ quá độ ở nước ta do trình độ LLSX còn thấp, lại phân bố không đều giữa các ngành, vùng, nên tất yếu còn tồn tại nhiều loại hình, hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.

- Vai trò của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần:

Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là tất yếu khách quan, mà còn là động lực thúc đẩy, kích thích sự phát triển LLSX xã hội. Bởi vì:

- Một là: Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tức là tồn tại nhiều hình thức tổ chức kinh tế, nhiều phương thức quản lý phù hợp với trình độ khác nhau của LLSX. Vì vì vậy nó có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

- Hai là: Nền kinh tế nhiều thành phần làm phong phú và đa dạng các chủ thể kinh tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, toạ tiền đề để đẩy mạnh cạnh tranh, khắc phục tình trnạg độc quyền. Điều đó góp phần vào việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân…

- Ba là: Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó là những " cầu nối", " trạm trung gian" cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên CNXH bỏ qua chế dộ TBCN.

- Bốn là: Phát triên mạnh cá thành phần kinh tế à cùng với nó là các hình thức sản xuất kinh doanh là một nội dung co bản của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta.

- Năm là: Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được nhiều lợi ích kinh tế cảu các giai cấp tầng lớp xã hội, có tác dụng khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, các tiềm năng của đất nước: như sức lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, kinh nghiệm quản lý… Đồng thời cho phép khai thác kinh nghiệm tổ chức quản lý và khoa học, công nghệ mới trên thế giới

b. Cơ cấu các thành phân kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH:

- Trên cơ sở nguyên lý ba thành phần kinh tế chủ yếu mà Lênin đã chỉ ra trong thời kỳ quá độ: kinh tế XHCN, kinh tế cuả những người sản xuất hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản tư nhân tùy hoàn cảnh cụ thể mà xác định cơ cấu thành phần cho phù hợp.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã xác định có 5 thành phần:

+ Kinh tế Nhà nước

+ Kinh tế tập thể

+ Kinh tế tư nhân ( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân)

+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

Nội dung, vai trò của các thành phần kinh tế như sau

* Kinh tế Nhà nước

Kinh tế Nhà nước dựa trên chế độ ở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất. Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài nguyên quốc gia và tài sản thuộc sở hữu nhà nước...

Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò được thể hiện:

Một là: Các doanh nghiệp Nhà nước giữ những vị trí then chốt ở những ngành, những lĩnh vực kinh tế và địa bàn quan trọng. Đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ,nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.

Hai là: Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế, đồng thời nó hỗ trợ va lôi cuốn các thành phân kinh tế khác cùng phát triển theo đinh hướng XHCN.

Ba là: Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

* Kinh tế tập thể:

Kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên hình thức sở hữu tập thể và sở hữu của các thành viên. Hợp tác xã được hình thành trên cơ sở đóng góp cổ phần và tham gia lao động trực tiếp của xã viên. Phân phối theo kết quả lao động,theo vốn góp, mức độ tham gia dịch vụ. Tổ chức và họat động của HTX theo nguyên tắc: tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Nhà nước giúp đỡ HTX đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng thị trường...

* Kinh tế tư nhân: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.

Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm:

- Kinh tế cá thể tiểu chủ:

- Kinh tế tư bản tư nhân:

Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta thành phần này còn có vai trò đáng kể để phát triển lực lượng sản xuất. Vì vậy nhà nước khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Đồng thời tạo môi trường pháp lý thuận lợi để nó hoạt động có hiệu quả.

* Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

c. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế và định hướng XHCN của nền kinh tế nhiều thành phần.

- Mối quan hệ: Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà đan xen vào nhau, tác động qua lại với nhau, mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất và biểu hiện lợi ích của một giai cấp, tầng lớp xã hôi nhất định. Vì vậy, các thành phần kinh tế vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau:

+ Tính thống nhất:

Mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế nằm trong hệ thống phân công xã hội có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Các thành phần kinh tế đều hoạt động trong một môi trường thống nhất (các chính sách, pháp luật và sự quản lý vĩ mô của nhà nước...) đều là nội lực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Sự thống nhất không phải tự nhiên mà có mà phải trải qua hợp tác và đấu tranh, đấu tranh để hợp tác tốt hơn.

+ Mâu thuẫn: Các thành phần kinh tế mang bản chất kinh tế và quan hệ kinh tế khác nhau biểu hiện lợi ích kinh tế khác nhau, xu hướng vận động khác nhau. Hơn nữa trong bản thân mỗi thành phần kinh tế cũng lại có những mâu thuẫn (do sự vi phạm hợp đồng, lợi ích cục bộ, vi phạm bản quyền...) Những mâu thuẫn của nền kinh tế nhiều thành phần chỉ được giải quyết dần dần trong quá trình xã hội hhóa sản xuất theo định hướng XHCN.

- Định hướng XHCN nền kinh tế nhiều thành phần:

Để định hướng XHCN nền kinh tế nhiều thành phần cần phải:

+ Làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và nó cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế.

+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khai thác tối đa các nguôn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.

+ Thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; thừa nhận thuê mướn lao động nhưng không để nó trở thành quan hệ thống trị.

+ Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước; phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, không để chênh lệch quá lớn về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư; kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội trong từng bước phát triển.

Câu 11. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của CNH, HĐH.


1.Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.

a. Khái niệm công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

- Từ cuối thế kỷ XVIII đến nay trong lịch sử đã diễn ra các loại công nghiệp hóa khác nhau:

+ Công nghiệp hóa TBCN

+ Công nghiệp hóa XHCN

* Xét về mặt lực lượng sản xuất, khoa học - công nghệ là giống nhau

*Khác nhau về mục đích, phương thức tiến hành và sự chi phối của quan hệ sản xuất thống trị.

Công nghiệp hóa diễn ra ở các nước khác nhau, thời điểm lịch sử khác nhau, điều kiện kinh tế xã hội khác nhau.Do vậy, nội dung khái niệm cũng có sự khác nhau.

Nhưng theo nghĩa chung nhất, khái quát nhất thì: công nghiệp hóa là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp.

- Quan niệm của Đảng ta: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao.

Quan niệm trên cho thấy, đây là một quá trình kết hợp chặt chẽ 2 nội dung:công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong quá trình phát triển:

+ Nó không chỉ đơn thuần là phát triển công nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, lĩnh vực và tòan bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại.

+ Là một quá trình không chỉ tuần tự từ cơ giới hóa sang tự động hóa, tin học hóa mà còn kết hợp giữa thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định.

- Do những biến đổi của nền kinh tế và điều kiện cụ thể của đất nước, CNH, HĐHH ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau:

+ CNH, HĐH theo đính hướng XHCN, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"

+ CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế trí thức

+ CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước

+ CNH, HĐH trong bối cảnh toàn cầu kinh tế và Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

b. Tính tất yếu của công nghiệp hóa- hiện đại hóa:

- Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên một cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng.

+ Nói cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất là nói cơ sở vật chất - kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương thức sản xuất đó.

+ Đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước CNTB là công cụ thủ công nhỏ bé, lạc hậu.

+ Đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hóa.

CNXH cũng phải có một nền kinh tế phát triển cao hơn dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhưng phải cao hơn CNTB về hai phương diện: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại.

Cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH là nền đại công nghiệp hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học - công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

- Vì vậy, từ CNTB hay từ những phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên CNXH thì việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

-Do đó: đối với các nước quá độ từ CNTB lên CNXH dù đã có công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật nhưng đó chỉ là tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Mà muốn có cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH các nước này phải:

+ Tiến hành cách mạng XHCN về quan hệ sản xuất

+ Tiếp thu, vận dụng phát triển cao hơn những thành tựu khoa học- công nghệ vào sản xuất

+ Hình thành cơ cấu kinh tế mới XHCN có trình độ cao và có tổ chức( có kế hoạch, tổ chức sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản một cách hợp lý có hiệu quả)

Chính vì lẽ đó đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên CNXH như nước ta thì việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH phải thực hiện từ đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn, thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho nên CNH- HĐH là tất yếu khách quan, là một việc làm đương nhiên đối với nước ta. Mỗi bước tiến của quá trình CNH, HĐH là một bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN

2. Tác dụng của công nghiệp hóa- hiện đại hóa

Thực hiện đúng đắn qúa trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa sẽ có tác dụng to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

- Tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động,tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế ; ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần quyết định sự thắng lợi của CNXH.

- Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích lũy và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh, đảm bảo đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.

Như vậy,Công nghiệp hóa hiện đại hóa có mối quan hệ gắn bó trực tiếp với lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là để thực hiện xã hội hóa sản xuất về mặt kinh tế - kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có tác dụng, ý nghĩa quan trọng và toàn diện. Đảng ta đã xác định: " Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo hướng hiện đại... là nhiệm vụ trung tâm" trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

II. CÁCH MẠNG KHOA HỌC-CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI VÀ NỀN KINH TẾ TRÍ THỨC

1. Đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại

* Đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại

Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật:

Cách mạng kỹ thuật lần I: Diễn ra đầu tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế XX với nội dung chủ yếu là cơ khí hóa, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.

Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ II: còn gọi là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, xuất hiện vào những năm 50 của thế kỷ XX. Cuộc cách mạng này đã làm thay đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội và chính trị. Cuộc cách mạng này có nhiều nội dung, song có 5 nội dung chủ yếu:

• Về tự động hóa: Sử dụng ngày càng nhiều máy tự động quá trình, máy công cụ điều khiển bằng số, rôbốt.

• Về năng lượng: Ngoài những dạng năng lượng truyền thống, ngày nay đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguyên tử là chủ yếu và các dạng năng lượng " sạch" như năng lượng mặt trời...

• Vật liệu mới: Chỉ chưa đầy 40 năm trở lại đây các vật liệu mới với nhiều chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật liệu tự nhiên không có được.

• Về công nghệ sinh học: Được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hóa chất, bảo vệ môi trường... như công nghệ vi sinh, , kỹ thuật nuôi cấy gen và nuôi cấy tế bào.

• Về điện tử và tin học: Đây là lĩnh vực vô cùng rộng lớn, hấp dẫn đang được loài người đặc biệt quan tâm, nhất là lĩnh vực máy tính diễn ra theo 4 hướng: nhanh, nhỏ, máy tính có xử lý kiến thức; máy tính nói từ xa..

* Từ nội dung của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nêu trên ta thấy có hai đặc điểm chủ yếu:

• Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp do con người tạo ra và thống qua con người đến lực lượng sản xuất. Nó đòi hỏi cần phải có chính sách đầu tư cho khoa học, kỹ thuật công nghệ tương ứng trong quá trình CNH, HĐH

• Thời gian cho một phát minh mới của khoa học ra đời thay thế cho phát minh cũ có xu hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng của một thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng. Nó đòi hỏi cần được kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược khoa học - cộng nghệ với chiến lược kinh tế - xã hội.

2. Sự hình thành và những đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế tri thức

* Sự hình thành kinh tế tri thức:

- Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức họat động.

- Kinh tế tri thức: Có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng có định nghĩa của của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế đưa ra năm 1995:

Nền kinh tế tri thức là nên kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.

+ Định nghĩa trên được hiểu là: Kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội…

+ Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của khoa học, công nghệ…

+ Một ngành kinh tế có thể coi là đã trở thành ngành kinh tế tri thức khi giá trị do tri thức tạo ra chiếm tỷ lệ áp đảo ( khoảng 70%) trong tổng giá trị sản xuất của ngành nào đó. Một nền kinh tế được coi là là đã trở thành nền kinh tế tri thức khi tổng sản phẩm các ngành kinh tế tri thức chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước (GDP).

* Đặc điểm chủ yếu của kinh tế tri thức:

- Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.

- Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng; trong đó các các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số.

- Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương diện được phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế.

- Trong nền kinh tế tri thức, nhuồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa; sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát triển cong người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.

- Trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.

* Yêu cầu đối với Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa:

- Nhất thiết phải tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới;

- Kết hợp quá trình phát tuần tự với đi tắt đón đầu.

- CNH, HĐH gắn với kinh tế trí thức

- Kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại

- Từng bước phát triển kinh tế tri thức, để vừa phát triển kinh tế - xã hội nhanh bền vững vừa rút ngắn được khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới.


Câu 12. Các quan điểm chỉ đạo quá trình CNH, HĐH của Đảng ta.



1. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta:

Xây dựng nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tình thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phấn đấu để đếm năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước CNH theo hướng hiện đại

2. Quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta:

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH

- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài Xây dựng nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước có khả năng sản xuất có hiệu quả.

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.

- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yêu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.

- Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định, cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.

- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn phương án đầu tư vào công nghệ.

- Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh.

Những quan điểm cơ bản trên về công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng nói lên những đặc điểm chủ yếu của công nghiệp hóa, hiẹn đại hóa ở nước ta.

IV. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM

1. Những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

a. Thực hiện cuộc cách mạng khọc học - công nghệ để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.

Trong điều kiện thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học công nghệ và điều kiện cơ cấu kinh tế mở, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ ở nước ta có thể và cần phải bao hàm các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ mà thế giới đã, và đang trải qua.

* Cuộc cách mạng khoa học - công nghiệp ở nước ta hiện nay có thể khái quát gồm hai nội dung chủ yếu sau:

- Xây dựng thành công cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội để dựa vào đó mà trang bị công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân.

- Tổ chức nghiên cứu, thu thập thông tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, đời sống với những hình thức, bước đi, quy mô thích hợp.

* Trong quá trình thực hiện cách mạng khoa học - công nghệ, chúng ta cần chú ý:

+ Ứng dụng những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.

+ Sử dụng công nghệ mới gắn liền với yêu cầu tạo nhiều việc làm, tốn ít vồn, quay vòng nhanh, giữ được nghề truyền thống; kết hợp công nghệ cũ, công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại.

+ Tăng cường đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa học và công nghệ; kết hợp phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, xây dựng mới, cải tạo cũ, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả.

+ Kết hợp các loại quy mô lớn vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, coi trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội.

2. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội.

* Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.

- Khái niệm: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành, cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác phù hợp giữa các bộ phận trong hệ thống kinh tế quốc dân.

Cơ cấu kinh tế được xem: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần kinh tế.

Trong cơ cấu kinh tế thì cơ cấu ngành là bộ phận có tầm quan trọng đặc biệt, là bộ xương của cơ cấu kinh tế

- Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu cần thiết khách quan của mỗi nước trong thời kỳ công nghiệp hóa. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế tối ưu khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau:

+ Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan nhất là các quy luật kinh tế và xu hướng vận động phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
+ Phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.

+ Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của ngành, các thành phần, các xí nghiệp cả về chiều rộng lần chiều sâu.

+ Thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng sản xuất và đời sống ngày càng được quốc tế hóa, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là "cơ cấu mở"

Đảng ta xác định Cần tập trung xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, mà " bộ xương" của nó là " cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng" và khi hình thành cơ cấu kinh tế đó sẽ cho phép nước ta kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Với phương châm là: Kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn, tiên tiến vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có hạn ở nước ta; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện; giữ được nhịp độ phát triển hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và các vùng trong nền kinh tế.

* Tiến hành phân công lại lao động xã hội

- Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa tất yếu phải phân công lại lao động xã hội.

- Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phân công lao động lại lao động xã hội phải tuân thủ các quá trình có tính quy luật:

+ Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động trong nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày càng một tăng lên.

+ Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội.

+ Tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.

- Phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển khai trên cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp phát triển theo chiều sâu.

Trong hai địa bàn này, cần ưu tiên địa bàn tại chỗ; nếu cần chuyển sang địa bàn khác phải có sự chuẩn bị chu đáo.

2. Những nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt

a. Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân

- Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao gắn với công nghiệp chế biến và thị trường

- Thực hiện cơ khí hoá, thuỷ lợi hoá…

- Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới

b. Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ

- Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao…

- Phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế …

- Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội…

c. Phát triển kinh tế vùng

d. Phát triển kinh tế biển

V. NHỮNG TIỀN ĐỀ ĐỂ ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA

1. Tạo vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày một hiện đại, đòi hỏi phải có nhiều vốn trong nước và ngoài nước, trong đó nguồn vốn bên ngoài là quan trọng.

- Nguồn vốn bên trong bao gồm: nhân lực là tài sản cố định tích lũy từ nhiều thế hệ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý và nhiều loại vốn hữu hình và vô hình khác.

- Tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế được thực hiện trên cơ sở hiệu quả sản xuất, nguòn của nó là lao động thặngdư của nguươì lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế.

Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, thực hiện tiết kiệm...

- Nguồn vốn bên ngoài được huy động từ các nước trên thế giới dưới nhiều hình thức khác nhau: Vốn viện trợ của các nước, các tổ chức kinh tế - xã hội; vốn vay ngắn hạn, dài hạn với các mức lãi suất khác nhau của các nước và các tổ chức kinh tế; vốn đầu tư của nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh, liên doanh liên kết....

Biện pháp cơ bản để tận dụng, thu hút vốn bên ngoài là: Đẩy mạnh mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà sản xuất kinh doanh nước ngoài tranh thủ mọi sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, vay vốn ở các nước....

Ở nước ta hiện nay, nguồn vốn trong nước còn hạn chế nên phải tận dụng khai thác nguồn vốn từ bên ngoài. Tuy nhiên, tạo nguồn vốn phải gắn chặt với quản lý sử dụng tốt, có hiệu quả, khai thác tối đa khă năng vốn đã có.

Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp cách mạng của quần chúng, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và công nhân lành nghề đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Trong quá trình phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có đầy đủ nguồn nhân lực về số lượng, đảm bảo về chất lượng và có trình độ cao.

Muốn vậy phải coi con người và đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, giáo dục và đào tạo phải thật sự trở thành quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Phải có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nguôn nhân lực, đồng thời phải bố trí sử dụng hợp lý nguồn nhân lực đã được đào tạo....

3. Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

- Khoa học và công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển nên tiềm lực về khoa học và công nghệ còn yếu....Đây là một công việc rất khó khăn và lâu dài, những trước mắt chúng ta cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:

+ Vấn dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt hiệu quả cao với tốc độ nhanh.

+ Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học để đánh giá chính xác tài nguyên quốc gia, nắm bắt các công nghệ cao cùng những thành tựu mới về khoa học của thế giới; hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường.

+ Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến, bao gồm: Đẩy mạnh các hình thức đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học, chuyên gia; tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các ngành khoa học và công nghệ; xây dựng và thực hiện tốt cơ chế, chính sách tạo động lực cho sự phát triển khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ.

+ Tiến hành điều tra cơ bản, thăm dò địa chất, quy hoạch và dự báo phát triển là những điều kiện không thể thiếu được của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...

4. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

- Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ cùng với xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế đang tạo ra mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các nước. Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước trở thành một tất yếu ... Quan hệ kinh tế càng mở rộng và có hiệu quả, thị sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa càng thuận lợi và nhanh chóng.

5. Tăng cường sự lãnh sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước

Đây là tiền đề quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, là sự nghiệp của toàn dân, nhưng phải đươc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thì sự nghiệp đó mới có thể hoàn thành tốt đẹp được

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét