Search

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

43. MỘT SỐ TÀI LIỆU MÔN KHOA HỌC HÀNH CHÍNH

Dưới đây là một số tài liệu của môn KHOA HỌC HÀNH CHÍNH mà Quý Thầy Cô đã chuyển cho lớp chúng ta, các anh chị tải về tham khảo nhé:
1. Tài liệu cô Bưởi gửi:Các anh chị tải tại đây LINK TẢI
2. Tài liệu Thầy Hải Hồ gửi: LINK 1LINK 2

Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014

42. THÔNG BÁO VỀ VIỆC HỌC CHÍNH TRỊ HÈ

Ban Giám đốc trung tâm Bồi dưỡng Chính trị Quận 1 thông báo:

Các Thầy Cô lưu ý phải tham gia đầy đủ lớp chính trị hè theo thông báo của trường các Thầy Cô. Nếu trùng ngày học trung cấp chính trị thì các Thầy Cô chủ động thay đổi đợt học khác. Cố gắng đảm bảo cả hai lớp học nhé!

Thứ Năm, 26 tháng 6, 2014

41. môn TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH: CÁC NGHỊ QUYẾT, TÁC PHẨM CẦN CHO BÀI THI

 Gồm:
1/ Chỉ thị số 03
2/ Di chúc
3/Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo
4/ Nghị quyết số 12 TW4 khóa XI về Xây dựng Đảng hiện nay
5/  Nghị quyết số 25 TW7 khóa XI về công tác dân vận trong tình hình mới
6/ Nghị quyết Trung uong 9 khoa XI VE VAN HOA
7/ Tác phẩm DÂN VẬN
Các anh chị tải về TẠI ĐÂY

40. THAM KHẢO MÔN NHÀ NƯỚC PHÁP LUẬT



Tất cả các tài liệu tham khảo môn NHÀ NƯỚC PHÁP LUẬT, các anh chị TẢI VỀ TẠI ĐÂY
1/ Sơ đồ Bộ máy Nhà nước.Tải

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2014

39. ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Dưới đây là đề cương thảo luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là tài liệu do một chị  trong lớp ta soạn và gửi. Nay xin phép chị được đăng lên web lớp, để anh chị, thầy cô nào cần thì sử dụng ạ:




ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Họ và Tên:
Lớp: H368


CÂU 1: Phân tích khái niệm TT HCM.Vì sao độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nội dung cốt lõi trong TTHCM? ĐCSVN đã vận dụng những nội dung này như thế nào? Liên hệ bản thân đồng chí.
A.    CHỦ ĐỀ : Nguồn gốc, quá trình hình thành tư tưởng HCM.
B.     TRỌNG TÂM: Độc lập dân tộc, gắn liền với CNXH là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh
C.    GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

- Một nội dung cơ bản và nhất quán trong Tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN. Ngay từ rất sớm Người đã nói rõ "ham muốn" tột bậc của mình là làm sao cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân tộc được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Và qua 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, cuối cùng Người khẳng định, tin tưởng rằng: chỉ có CNXH mới là con đường để "ham muốn" đó được thực hiện. Tư tưởng của Bác đã trở thành tư tưởng hướng đạo cho cách mạng Việt Nam. 
- Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Không giành được độc lập dân tộc thì không có điều kiện để xây dựng CNXH. Độc lập dân tộc thật sự đòi hỏi xóa bỏ áp bức, nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác, gắn liền độc lập dân tộc với tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân, do đó chỉ có thể gắn liền với sự phát triển xã hội XHCN. Chính nhờ sự kiên định nội dung tư tưởng đó mà Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết nên một lịch sử Việt Nam anh hùng với những mốc son chói lọi: Cách mạng Tháng 8 năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và đi lên xây dựng CNXH. Tư tưởng đúng đắn, hợp quy luật, hợp lòng dân đó đã được Đảng quán triệt xuyên suốt trong cả tiến trình cách mạng, đặc biệt là trong quá trình đổi mới. 
hính nhờ sự kiên định đầy quyết tâm đó cùng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng mà nhân dân ta đã đứng vững và tiếp tục kiên trì mục tiêu CNXH trong khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã lâm vào thoái trào, tan rã; tạo cơ sở khẳng định vị thế và sức mạnh của cách mạng Việt Nam trên trường quốc tế. Niềm tin đối với Đảng trong lòng nhân dân ngày càng được củng cố, tăng cường, tạo đà cho sự phát triển mạnh hơn, cao hơn, triệt để hơn của thời kỳ CNH-HĐH. 
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước tình trạng nhiều vấn đề xã hội bức xúc và gay gắt chưa được giải quyết tốt như nạn thiếu việc làm, sự phát triển của tệ nạn xã hội, sự khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân dân, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo là nguy cơ chệch hướng XHCN, tụt hậu xa hơn về kinh tế, "diễn biến hòa bình" và tệ quan liêu tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp thì việc giữ vững định hướng, mục tiêu XHCN càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. 
Hơn 70 năm chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta đã hoàn thành được một phần sứ mệnh lịch sử: đất nước độc lập, thống nhất, đi lên CNXH. Song con đường phía trước không hoàn toàn bằng phẳng, trơn tru. Sự đan xen sâu sắc giữa những thời cơ và thách thức mà thời đại đặt ra, buộc dân tộc ta, Đảng ta và bản thân mỗi người dân Việt Nam chúng ta phải "lớn" hơn ngày hôm qua. Trên bệ phóng của những thành công rực rỡ mà cha ông đã xây dựng, thế hệ trẻ Việt Nam khát khao được là người kế nghiệp xứng đáng. Thiết nghĩ, để khát khao ấy được thắp sáng, điểm xuất phát trước hết phải là sự trung thành đối với Tổ quốc, với lý tưởng của Đảng và của nhân dân, kiên định lập trường cách mạng, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đặc biệt là nhất quyết thực hiện sứ mệnh: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, xây dựng thành công CNXH. 


CÂU 2: Nội dung cơ bản của TTHCM về xây dựng đảng, Nhà nước, mặt trận ở nước ta? ĐCSVN đã vận dụng trong việc xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay? Liên hệ bản thân đồng chí.
A.    CHỦ ĐỀ : Tư tưởng HCM về xây dựng Đảng.
B.     TRỌNG TÂM: Tư tưởng HCM về xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận
C.    GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

V.I. Lênin đã từng chỉ rõ: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng là phải có một đảng cộng sản, có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác và Lênin làm gốc”. Và trên tinh thần kế thừa, phát triển những luận điểm của Lênin về Đảng Cộng sản, trên cơ sở nhận thức sâu sắc về chế độ chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của các dân tộc phương Đông khác với phương Tây, đặc biệt là các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp chung của dân chúng, và muốn quần chúng đ­ược giác ngộ, đư­ợc tổ chức lại để tiến hành đấu tranh cách mạng, tất yếu phải có một tổ chức tiền phong lãnh đạo. Vì vậy, Người chỉ rõ: “Cách mạng trư­ớc hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách mệnh mới thành công, cũng nh­ư ng­ười cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Không dừng lại ở đó, cùng với những hoạt động về lý luận và thực tiễn, cùng với việc tổ chức, giảng bài tại những lớp Huấn luyện chính trị, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cốt cán, sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và ra báo Thanh Niên làm cơ quan ngôn luận của Hội tại Quảng Châu trong những năm từ 1925- 1927, Hồ Chí Minh đã nỗ lực chuẩn bị một cách đầy đủ những tiền đề và điều kiện cho sự ra đời của một chính đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.
Tiếp đó, như một tất yếu khách quan của lịch sử, luồng gió mới của thời đại, những nguyên lý của học thuyết Mác- Lênin về Đảng Cộng sản, về phương pháp đấu tranh cách mạng, vận động quần chúng, về vai trò của các tổ chức quần chúng,v.v.. đã theo những hội viên của hội Việt Nam cách mạng thanh niên, theo những tờ báo Thanh Niên được bí mật truyền về trong nước, góp phần làm cho đời sống chính trị - xã hội trong nước có những chuyển biến tích cực. Và phong trào công nhân phát triển từ tự phát đến tự giác, phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta đã ngả theo khuynh hướng vô sản,v.v.. đã dẫn đến sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam trong những năm 1929- 1930.
Trong bối cảnh đó, để tránh nguy cơ phân liệt và mất đoàn kết, nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử của mình, Hồ Chí Minh đã viết thư mời đại diện các tổ chức cộng sản và triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa xuân năm 1930. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cách mạng Việt Nam đã có người cầm lái. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng ta được thành lập, một hành trình đấu tranh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH bắt đầu.
Thấm nhuần những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh khẳng định: trong thời đại ngày nay, giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất và độc nhất có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Và trong cuộc đấu tranh giải phóng, dù là lực l­ượng cách mạng to lớn, nhưng do những hạn chế về mặt giai cấp, nên giai cấp nông dân không thể tự mình lãnh đạo cách mạng, mà phải liên minh với giai cấp công nhân, là đồng minh tin cậy của giai cấp công nhân.
Tuy nhiên, cũng theo quan điểm của Người, Đảng dù là tổ chức của những người con ưu tú nhất của giai cấp công nhân và của dân tộc, nhưng Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận và nhân dân thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà, Đảng “phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất, chân thực nhất; chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành đư­ợc địa vị lãnh đạo”
Thực tiễn quá trình ra đời và hoạt động của Đảng ta trong 82 năm qua đã chứng minh rằng: Vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã không chỉ sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mà Người còn xây dựng thành công một Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, nhưng cũng đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Nhân tố quyết định bản chất của giai cấp công nhân của Đảng không chỉ là thành phần xuất thân của đảng viên, mà chính là nền tảng tư tưởng của Đảng – đó là chủ nghĩa Mác-Lênin, là mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, là đ­ường lối của Đảng thực sự vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người; đó không chỉ là việc tuân thủ những nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng kiểu mới, mà còn là thực tiễn đấu tranh cách mạng đầy vinh quang và gian khó của Đảng, nên trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ II (2/1951), Người nêu rõ: “Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
Xuyên suốt và nhất quán quan điểm này, khi Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và xây dựng CNXH ở miền Bắc, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư­, thiên vị” (9/12/1961). Ng­ười còn nói rõ thêm, Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những ngư­ời thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân, nên luôn luôn và nhất định: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung s­ướng”
2. Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh trong điều kiện Đảng cầm quyền
Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công, cùng với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Theo Hồ Chí Minh, là ng­ười lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, nhưng “Đảng cầm quyền, nhân dân là chủ” và mọi quyền hành, mọi lực lư­ợng đều ở nơi dân.
Ngay từ những ngày đầu của nền dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, và nhấn mạnh đó chính là điểm khác biệt, phân biệt bản chất của một chính Đảng vô sản kiểu mới với các chính đảng khác. Và dù là người lãnh đạo, song trong chế độ xã hội mới mà nhân dân ta đang xây dựng và tiếp tục xây dựng, thì quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân là vấn đề có tính nguyên tắc. Nguyên tắc đó khẳng định vai trò Đảng lãnh đạo cách mạng, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, đồng thời chỉ rõ: cán bộ, đảng viên của Đảng nắm giữ những vị trí quan trọng trong các cơ quan công quyền thực sự là công bộc của dân, phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, v.v... Nếu làm trái với những điều này, nếu cậy quyền, cậy thế, quan liêu, tham nhũng, những “ông quan cách mạng”, những kẻ “vinh thân phì gia”, vì quyền lợi ích kỉ của bản thân, gia đình, giòng họ mà xa rời mối liên hệ máu thịt Đảng - Dân, thì những con “sâu mọt của dân” ấy đã làm cho nguy cơ thoái hóa, biến chất, đe dọa sự tồn vong của một Đảng cầm quyền đến rất gần.
Tiên liệu trước nguy cơ thoái hóa biến chất của một bộ phận cán bộ đảng viên trong Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: để Đảng cầm quyền bao gồm những người con ưu tú nhất của dân tộc, đó là những người công nhân, nông dân, lao động trí óc, và những người ưu tú của các giai tầng khác trong xã hội (đã giác ngộ cách mạng, sẵn sàng hy sinh phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân), thì những đội ngũ cán bộ đảng viên phải là những người “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Muốn vậy, mỗi cán bộ đảng viên phải không ngừng phấn đấu, học tập, để một mặt nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, phương thức lãnh đạo, mặt khác “mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự cần kiệm liêm chính chí công vô tư­, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là ngư­ời lãnh đạo ng­ười đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Đây chính là một luận điểm quan trọng của Người về mối quan hệ giữa Đảng và Dân; Đảng và Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Và cũng theo lời Người, để xây dựng Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh trong điều kiện Đảng cầm quyền, tất yếu và thư­ờng xuyên phải tiến hành xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã từng nói: “Phải chỉnh đốn nội bộ Đảng… Đảng ví nh­ư cái máy phát điện, các công việc trên ví như­ những ngọn đèn, máy mạnh thì đèn sáng” (1/1949); “Đảng là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc. Để làm tròn nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc, Đảng phải mạnh, toàn Đảng tư­ t­ưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí”(4/1952); và trong bản Di chúc lịch sử, Ng­ười nhấn mạnh: “Việc phải làm tr­ước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm đ­ược như­ vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”(5/1968),v.v..
Trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, cán bộ, đảng viên phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư­ t­ưởng và kim chỉ nam cho hành động; nâng cao trình độ nhận thức, nắm vững bản chất cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững lập tr­ường, ph­ương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết những vấn đề của thực tiễn. Cán bộ, đảng viên phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận, trình độ chuyên môn, năng lực trí tuệ, nắm chắc thực tiễn cách mạng để hoạch định và kịp thời bổ sung chủ trư­ơng, đường lối của Đảng; chống giáo điều, kinh nghiệm chủ nghĩa,v.v..Đặc biệt, cán bộ, đảng viên phải luôn tuân thủ và vận dụng một cách linh hoạt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng: nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh và tự giác; đoàn kết thống nhất trong Đảng về tư­ t­ưởng, ý chí và hành động, và trong mọi hoàn cảnh phải kiên quyết chống và quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Đồng thời, để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, để xây dựng và chỉnh đốn Đảng thành công, một công việc không kém phần quan trọng, đó là Đảng phải phải loại bỏ những phần tử cơ hội, thoái hoá, biến chất ra khỏi Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, để Đảng luôn là bộ tham mưu tối cao, ưu tú của giai cấp và dân tộc, luôn luôn giữ vững đạo đức cách mạng, tận tâm, tận lực phục vụ Tổ quốc và nhân dân.
3. Tiếp tục xây dựng Đảng ta "là đạo đức, là văn minh" trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
Tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta từng b­ước tiến hành đổi mới chính trị, nhằm thực hiện mục tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ và sức mạnh của nhân dân. Trong khi đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã coi trọng xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo đối với toàn bộ hệ thống chính trị và cả xã hội. Đảng phải thư­ờng xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo, trên tinh thần: 1/ Xác định đúng mục đích xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững và nâng cao năng lực hiệu quả, uy tín lãnh đạo xã hội về mọi mặt của Đảng. 2/ Xác định đúng chức năng của Đảng trong sự lãnh đạo xã hội về mọi mặt. 3/ Xác định đúng phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu bằng hệ t­ư t­ưởng, lý luận, đư­ờng lối, chủ trư­ơng, và xác định đúng ph­ương pháp lãnh đạo tuyên truyền, giáo dục thuyết phục, kiểm tra và nêu g­ương của cán bộ, đảng viên, của tổ chức Đảng.
Trên tinh thần đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ XI ghi rõ: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng đồng thời cũng là một bộ phận của hệ thống đó, nên “Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Để Đảng đảm đương được vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng phải mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải giữ vững truyền thống đoàn kết, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình, luôn xây dựng và tự chỉnh đốn, v.v...
Đồng thời để đội ngũ cán bộ đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đến thành công, thấm nhuần lời dạy của Người: “Đảng có vững cách mạng mới thành công”, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng một cách nghiêm túc trên tinh thần đổi mới. Đó là thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới trong hơn tám thập kỷ; là cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đã thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ư­ơng VI (lần thứ 2) của Ban Chấp hành Trung ư­ơng Đảng khoá VIII "Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng", trên cả ba lĩnh vực (nhận thức, tư­ t­ưởng, chính trị; đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên và một số vấn đề tổ chức); là triển khai thực hiệnHọc tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) và Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị và đặc biệt là thực hiện Nghị quyết 12- khóa XI: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” sâu rộng trong cả nước,v.v..
Trên tinh thần,”xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay”, và nhất là “chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, có năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XI, mỗi cán bộ đảng viên của Đảng “phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; phê phán, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng”
Đó là yêu cầu, là nhiệm vụ bức thiết, thường xuyên của một Đảng cầm quyền, đó cũng là thực hiện theo những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” đưa sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của nhân dân ta đi đến thành công
CÂU 3: TTHCM về giá trị văn hoá tinh thần? Tại sao HCM lại đưa ra khái niệm đạo đức cách mạng và những nội dung cơ bản? ĐCSVN đã đặt ra yêu cầu gì đối với việc tập và làm theo tư tưởng HCM? Liên hệ bản thân.
A.    CHỦ ĐỀ : Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, về đạo đức cách mạng.
B.     TRỌNG TÂM: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa tinh thần, về đạo đức cách mạng.
C.    GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
- Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
 Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau
Hai là, yêu thương con người
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời"
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.

CÂU 4: TTHCM về dân vận? Tại sao phát huy khối đại đoàn kết dân tộc là một phương thức để tiến hành công tác dân vận? Liên hệ bản thân.
A.     CHỦ ĐỀ : Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận.
B.     TRỌNG TÂM: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một phương thức tiến hành dân vận
C.    GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng đất nước ta, cả trong thời kỳ chưa có chính quyền lẫn thời kỳ Đảng cầm quyền; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và toàn xã hội, thắt chặt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Cần quán triệt quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành công tác dân vận theo tư tuởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới.
Một là, công tác dân vận phải xuất phát từ lợi ích của quần chúng nhân dân, thực hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng không có lợi ích nào khác “Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”; Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng và chính quyền phải thực hành phương châm: “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Trước lúc đi xa Người còn không quên căn dặn: “Việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ mà Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”. Trong bất kỳ thời kỳ nào vẫn là việc của dân, do dân và vì dân.
Hai là, thực hành dân chủ là phương thức cơ bản của công tác dân vận.
Với quy trình bốn điểm về dân vận và công tác dân vận được Hồ Chí Minh đề ra: giải thích cho dân hiểu, bàn với dân, tổ chức để dân thi hành, cùng dân kiểm thảo lại công việc, được Đảng ta tổng kết thành phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đã nói lên vai trò của việc thực hành dân chủ trong công tác dân vận. Hồ Chí Minh đã ghi rõ: Thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Ba là, dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết là thành công: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Bởi vậy, dân vận phải hướng tới mục tiêu đoàn kết dân tộc trên cơ sở có sự “đồng tâm”, “đồng sức”, “đồng lòng”, “đồng thuận’, “đồng hưởng” của toàn dân, từ nhiệm vụ và mục tiêu đoàn kết, dân vận hướng toàn dân tộc vào thực hiện mục tiêu lý tưởng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, dân vận và công tác dân vận là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất. Là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có công tác dân vận. Dân là chủ và thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước, trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Hồ Chí Minh đã nói “Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường”. Là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn dân, song công tác dân vận phải được tiến hành thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất, tổ chức thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc. Tuỳ theo các thời kỳ khác nhau của cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những tên gọi khác nhau: Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955, 1976)… nhưng thực chất chỉ là một tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức, các cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Trên cơ sở thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc và lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động, Mặt trận dân tộc thống nhất thực sự là tổ chức mà qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo, Nhà nước thực hiện sự quản lý, nhân dân và cả hệ thống chính trị thực hành công tác dân vận.
Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, cần thực thi có hiệu quả những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu về công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:
Thứ nhất, phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực về nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, của tổ chức và mỗi người dân, trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận; nhất là các quan điểm trong Nghị quyết Trung ương 7, khoá IX về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “Về công tác dân tộc, công tác tôn giáo”. Cần thiết phải nhắc lại năm chủ trương và giải pháp lớn được Đảng ta đề cập trong Nghị quyết Trung ương 7, khoá IX “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” để quán triệt: xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc; phát huy mạnh mẽ vai trò chính quyền nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối đoàn kết toàn dân tộc. Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức của các cấp, các ngành phải có chuyển biến nhận thức sâu sắc về vai trò, mục đích, qui trình, nội dung, phương thức tiến hành công tác dân vận trong giai đoạn mới làm cơ sở cho công tác dân vận.
Thứ hai, thực hiện tốt Qui chế dân chủ ở cơ sở, sáng tạo và thực hiện có hiệu quả những hình thức, phương pháp dân vận phù hợp với mỗi địa phương và từng cơ sở. Chủ nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ rõ: chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Phát huy hơn nữa việc thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở, theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, sáng tạo, tìm tòi những hình thức, phương pháp dân vận thích hợp là yêu cầu của công tác dân vận trong thời kỳ mới; đồng thời phải gắn công tác dân vận, theo Hồ Chí Minh tức là dân vận phải khéo: “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Thứ ba, đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, đồng thời với việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận ở các cấp, các ngành. Công tác dân vận là công việc của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, song tổ chức trực tiếp làm công tác dân vận đóng vai trò rất quan trọng. Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo: “Khuyết điểm to ở nhiều nơi xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, mà không vận được cũng mặc… Đó là sai lầm rất to, rất có hại”. Đã đến lúc cần quan tâm kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân vận từ trung ương đến cơ sở trên cơ sở xác định đúng chức năng, nhiệm vụ và tạo điều kiện cả về vật chất, tinh thần và pháp lý cho các tổ chức làm công tác dân vận hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời với việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận vừa “có tâm” vừa đủ “tầm”. Cán bộ làm công tác dân vận theo Hồ Chí Minh phải có tác phong: “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Yêu cầu óc nghĩ đòi hỏi người làm công tác dân vận phải có trình độ, có năng lực làm công tác dân vận. Yêu cầu “mắt trông, tai nghe, chân đi” đòi hỏi người cán bộ phải sát cơ sở sát thực tế, đến với dân, phải “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Phong cách này chính là sự thể hiện phương châm của Hồ Chí Minh: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “Cán bộ vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ, là công bộc của dân”.
Thứ tư, đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua yêu nước, toàn dân đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh đã từng nói: Thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua. Thông qua phong trào thi đua yêu nước, nhiều hình thức, phương pháp dân vận được áp dụng có hiệu quả vào thực tế; nhiều hình thức, phương pháp mới nảy sinh, nhiều kinh nghiệm mới được tổng kết.
Trong mỗi thời kỳ phát triển của cách mạng, Đảng ta luôn phát động phong trào thi đua yêu nước. Mặc dù với những hình thức và nội dung có khác nhau, song mục đích chung vẫn là khơi dậy và phát huy tất cả các lực lượng của mỗi người và của mọi người tạo thành lực lượng toàn dân, vượt qua những khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trước yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để công tác dân vận hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình – xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cần phải tồ chức và thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, để nhà nhà thi đua, người người thi đua, ngành ngành thi đua, tạo động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
CÂU 5: Tại sao đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: TTHCM là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp CM của nhân dân ta giành thắng lợi? Liên hệ bản thân
A.    CHỦ ĐỀ : Học tập vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác lãnh dạo, quản lý ở cấp cơ sở.
B.     TRỌNG TÂM: TTHCM là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp CM của nhân dân ta giành thắng lợi
C.    GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1-Tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc 

Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Khi tôn vinh Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất và Anh hùng giải phóng dân tộc, tổ chức UNESCO đã ghi nhận: Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh là kết tinh của truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau… 

Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những giá trị truyền thống tốt đẹp và cao quý. 

Trước hết đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Đây là một trong những tài sản có giá trị nhất trong hành trang của Hồ Chí Minh lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Nó là cơ sở xuất phát, là động lực, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã có quá trình lịch sử hàng ngàn năm với nội dung phong phú và sâu sắc như: yêu nước gắn liền với yêu quê hương, yêu con người Việt Nam, yêu truyền thống văn hóa quý giá. Thời kỳ phong kiến, yêu nước có nội dung trung
qupân ái quốc, lợi ích giai cấp thống trị phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động trong sự nghiệp chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. 

Hồ Chí Minh đã làm phong phú nội dung của chủ nghĩa yêu nước. Yêu nước đối với Người là gắn liền với yêu nhân dân. Người nói, lòng thương yêu nhân dân và nhân loại của Người không bao giờ thay đổi…Người có một ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được độc lập, dân ta có cơm ăn, áo mặc và được học hành. Người đã nêu ra chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân” và phát triển những nội dung mới của chủ nghĩa yêu nước. Đó là yêu nước dựa trên quan điểm giai cấp công nhân, yêu nước mở rộng ra thành tình yêu vô cùng rộng lớn đối với nhân dân lao động, những người cùng khổ, đối với giai cấp công nhân các nước trên thế giới. Trên cơ sở tư tưởng của giai cấp công nhân, Người đã nêu ra nội dung mới: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mới ngày một ấm no thêm, Tổ quốc ngày một giàu mạnh thêm. 

Trong các giá trị truyền thống Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái là những nét hết sức đặc sắc. Truyền thống này hình thành một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Người Việt Nam gắn bó với nhau trong tình làng, nghĩa xóm. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh). Người thường nhấn mạnh, nhân dân ta đã từ lâu sống với nhau có tình có nghĩa. Tình nghĩa ấy được Người nâng lên cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Ngay cả khi tiếp thu lý luận Mác-Lênin-đỉnh cao của trí tuệ nhân loại-cũng phải trên nền tảng của giá trị truyền thống. Người nhấn mạnh: Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu kinh sách mà sống không có tình nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được…Tư tưởng đại nhân, đại nghĩa ở Hồ Chí Minh là phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của con người, là cứu nước, độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển. Trong văn hóa đạo đức Việt Nam, chữ “Nghĩa” có ý nghĩa là lẽ phải, ngay thẳng. Nguyễn Trãi đã từng nói: Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên “công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”, Hồ Chí Minh lấy chữ nghĩa để phân rõ bạn thù. Ai làm điều gì có lợi cho nhân dân, cho Tổ quốc đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc đều là kẻ thù. 

Trong những giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc, Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh thần cộng đồng, một lối sống thành thực, thân ái, những thuần phong mỹ tục, trở thành những yếu tố đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Ngay từ năm 1947, trong khi cuộc chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết liệt, người đã nói đến đời sống mới của một người, một nhà, một làng và khắp cả nước. Xoay quanh hạt nhân của đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh đã nói đến thuần phong mỹ tục, không có cờ bạc, hút xách, bợm bài, trộm cắp...


Phân tích giá trị tư tưởng hồ chí minh
1. Hình thức tổ chức:
1.1. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất
- Hồ Chí Minh lại chủ trương đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức vì cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn; nếu không, quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu người cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh
- Để xây dựng trên thực tế tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương đưa quần chúng nhân dân vào các tổ chức yêu nước phù hợp với từng đối tượng quần chúng và từng bước phát triển của cách mạng, đồng thời Người chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp tất cả các tổ chức và cá nhân yêu nước phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng chung.
1.2. Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Để Mặt trận hoạt động một cách hiệu quả, Hồ Chí Minh đã đưa ra những nguyên tắc hoạt động sau:
- Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông và lao động trí óc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm bảo đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
- Hoạt động đoàn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
2. Vận dụng tư tưởng này, yêu cầu cách mạng đặt ra trong giai đoạn hiện nay là: phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm fát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp CNH - HĐH đnước vì mục tiêu của CNXH.
Một số giải fáp nhằm fát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hiện nay:
- Phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Lấy mục tiêu của sự nghiệp CM làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, fân biệt đối xử, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.
- Đảm bảo công bằng và bình đẳng XH.
- Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống ctrị.

- Thế kỷ 20 đã đi qua, nhưng ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh với khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập tự do” vẫn còn nguyên giá trị và sức sống, tạo nên sự liên kết gắn bó giữa các thế hệ người Việt Nam, giữa Việt Nam với thế giới. 

 “tư tưởng Hồ Chí Minh” đã trở thành “kim chỉ nam” đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng. Tư tưởng và tấm gương đấu tranh bất khuất cho độc lập, tự do của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã trở thành nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ 20.

Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam

Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà lý luận, nhà tư tưởng, nhà chiến lược thiên tài mà còn là nhà hoạt động thực tiễn kiệt xuất. Người là ngọn cờ chói lọi lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Việt Nam đoàn kết một lòng, vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, anh dũng đấu tranh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang